sales@taplogistics.vn
(+84) 79 79 88 880

Tin tức thị trường - TAN AN PHAT LOGISTICS

gpxanh1.jpg

Triển lãm Quốc tế Logistics Việt Nam 2024 (VILOG 2024) hướng đến giải pháp cho một trong những thách thức cấp bách nhất hiện nay – logistics bền vững. Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 01 đến 03 tháng 8 năm 2024 tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Sài Gòn (SECC) – 799 Nguyễn Văn Linh, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, hứa hẹn sẽ thu hút sự tham gia của các nhà lãnh đạo, các doanh nghiệp logistics và các bên liên quan từ khắp nơi trên thế giới dưới chủ đề “Logistics xanh – Nền tảng phát triển bền vững”.

Triển lãm Quốc tế Logistics Việt Nam 2024 dự kiến ​​sẽ vượt qua thành công trước đó với quy mô ấn tượng và đa dạng hơn. Năm 2023, sự kiện đã chào đón gần 25.000 lượt khách tham quan, cho thấy sức hút lớn của triển lãm đối với các doanh nghiệp logistics trong và ngoài nước. VILOG 2024 gồm 400 gian hàng từ hơn 300 công ty đại diện cho 20 quốc gia và vùng lãnh thổ, thúc đẩy kết nối toàn cầu hệ thống logistics. Các lĩnh vực chính của triển lãm bao gồm: Vận tải & Giao nhận, Kho thông minh và chuỗi cung ứng lạnh, Máy móc – thiết bị xử lý vật liệu, Ứng dụng công nghệ logistics, Cơ sở hạ tầng KCN và cảng biển, mang đến cái nhìn toàn diện về những tiến bộ và đổi mới trên các lĩnh vực xương sống này của ngành logistics. Sự kiện này là nền tảng trung tâm dành cho các chuyên gia và các doanh nghiệp trong ngành đang nghiên cứu các giải pháp tiên tiến và tạo dựng mạng lưới kết nối kinh doanh có giá trị.

Triển lãm Quốc tế Logistics Việt Nam 2024 hân hạnh được tài trợ bởi các công ty hàng đầu trong ngành logistics, nâng tầm sức ảnh hưởng của sự kiện đối với lĩnh vực logistics toàn cầu. Nhà tài trợ chính, SeaRates by DP World (UAE) mang đến cho triển lãm chuyên môn sâu rộng và danh tiếng quốc tế của mình. Với hơn 106.500 nhân viên tại 73 quốc gia, SeaRates by DP World tạo ra các giải pháp đầu cuối hiệu quả bằng cách tích hợp cơ sở hạ tầng với công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, VILOG 2024 còn được đồng tài trợ bởi 5 công ty tập đoàn lớn: JGL Worldwide (Singapore), Tập đoàn ITL (Việt Nam), Cảng quốc tế Long An (Việt Nam), Tập đoàn DHL (Đức) và Sea Logistics Partners (Việt Nam), mỗi bên đều đóng góp những thế mạnh và ưu thế riêng của mình để nâng cao hiệu quả và các giá trị gia tăng cho triển lãm, thực hiện cam kết chung nhằm thúc đẩy đổi mới và tăng cường hợp tác ngành logistics toàn cầu.


20220629_62bc9c3da22f3.png
  1. 1PL (First-Party Logistics)

Là một công ty sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa tự quản lý và điều hành quá trình vận chuyển và kho bãi của chính mình. Các hoạt động logistics của công ty này được thực hiện bởi những người làm việc trong công ty đó, chẳng hạn như tài xế và nhân viên kho bãi. Các công ty này thường tập trung vào sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa và không chuyên về logistics.

  1. 2PL (Second-Party Logistics)

2PL là một công ty vận chuyển bên thứ hai, cung cấp dịch vụ vận chuyển cho các công ty sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa. Các công ty 2PL thường sử dụng các phương tiện vận chuyển của chính mình hoặc thuê từ các bên thứ ba để thực hiện các hoạt động vận chuyển và quản lý kho bãi. Các công ty 2PL thường chỉ cung cấp các dịch vụ logistics cơ bản, chẳng hạn như vận chuyển và lưu trữ hàng hóa.

  1. 3PL (Third-Party Logistics)

Đây là một nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba, chuyên về vận chuyển, lưu trữ và quản lý hàng hóa cho khách hàng. 3PL không sở hữu các phương tiện vận chuyển hay kho lưu trữ hàng hóa, thay vào đó, họ tập trung vào cung cấp dịch vụ logistics cho các công ty khác. Các dịch vụ của 3PL bao gồm vận chuyển hàng hóa, quản lý kho, đóng gói và đóng thùng hàng, và các dịch vụ khác.

Ví dụ một vài 3PLs: CJ Gemadept Logistics, Transimex Saigon, Sotrans, Damco Vietnam, TBS Logistics, Indo Tran Logistics…

  1. 4PL (Fourth-Party Logistics)

Đây là một nhà cung cấp dịch vụ logistics toàn diện, được quản lý bởi một bên thứ tư. 4PL có thể được xem là một trung gian giữa khách hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics khác như 3PL. 4PL cung cấp các giải pháp logistics toàn diện cho khách hàng, bao gồm thiết kế mạng lưới vận chuyển, quản lý quá trình logistics và đưa ra các giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu chi phí và tối đa hóa hiệu quả.

Ví dụ một vài 4PLs: Accenture, DHL Supply Chain Solutions, UPS Supply Chain Solutions, XPO Logistics…..

  1. 5PL (Fifth-Party Logistics)

Đây là một khái niệm mới hơn và ít được sử dụng hơn 3PL và 4PL. 5PL là một nhà cung cấp dịch vụ logistics toàn diện, tập trung vào việc cung cấp các giải pháp logistics đa cấp cho khách hàng. Nó không chỉ quản lý các quá trình logistics truyền thống như vận chuyển và lưu trữ hàng hóa, mà còn đưa ra các giải pháp đột phá về kỹ thuật số, thông minh nhân tạo, blockchain và các công nghệ khác để tối ưu hóa quá trình logistics và nâng cao hiệu quả của chuỗi cung ứng.

Ví dụ một vài 5PLs: Accenture, Deloitte, IBM, KPMG, PwC, DHL….

Đúng vậy, quy mô và nhu cầu của từng doanh nghiệp sẽ quyết định việc lựa chọn dịch vụ logistics phù hợp nhất cho họ. Tuy nhiên, việc đưa ra quyết định này sẽ phải cân nhắc giữa chi phí và chất lượng của chuỗi cung ứng để đảm bảo sự hài lòng của khách hàng.

Trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển ngày càng mạnh mẽ, dịch vụ 5PL được dự đoán sẽ trở thành một xu hướng thuê ngoài được ưa chuộng trong tương lai. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, dịch vụ 5PL có thể giúp doanh nghiệp quản lý và tối ưu hóa chuỗi cung ứng một cách toàn diện hơn, từ việc thu thập thông tin đến phân tích dữ liệu và đưa ra các giải pháp tối ưu.


trien-lam-1200x636.jpg

Triển lãm Quốc tế Logistics Việt Nam 2024 (VILOG 2024) hướng đến giải pháp cho một trong những thách thức cấp bách nhất hiện nay – logistics bền vững. TP.HCM: quy tụ hơn 300 doanh nghiệp tham gia triển lãm quốc tế ngành logistics Việt Nam 2024

(PLM) – Sáng ngày 1/8/2024, tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Sài Gòn, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh, hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam, phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu, đã tổ chức khai mạc triển lãm Quốc tế Logistics Việt Nam 2024 với chủ đề “Logistics xanh – Nền tảng phát triển bền vững”.

Triển lãm diễn ra trong 3 ngày 1/8 đến 3/8/2024. Chương trình tập trung vào các lĩnh vực chính như: vận tải và giao nhận, kho thông minh và chuỗi cung ứng lạnh, máy móc – thiết bị xử lý vật liệu, ứng dụng công nghệ logistics, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và cảng biển… mang đến bức tranh toàn diện về những tiến bộ và đổi mới trên các lĩnh vực xương sống này của ngành logistics.

Nổi bật tại triển lãm là Công ty Tân An Phát Logistics, với 15 năm kinh nghiệm trong ngành logistics, có trụ sở văn phòng chính được đặt tại số 13 bis, Đại lộ Bình Dương, khu phố Bình Hòa, phường Lái Thiêu, TP. Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguồn: https://baophapluat.vn/media/post-13332.html


TAP-WEB-Thumbnail-162-Tối-thiểu-hoá-chi-phí-logistics.png

Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia, tuy nhiên chi phí logistics tại Việt Nam luôn duy trì ở mức cao hơn các khu vực khác 20%. Điều này xảy ra vì vẫn còn tồn đọng vấn đề về như thiếu cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ, chưa hiệu quả trong các quy trình và hệ thống (cả trong các cơ quan chính phủ cũng như doanh nghiệp), thiếu các chuyên gia hậu cần lành nghề, hạn chế về năng lực kho bãi. Vậy nên việc làm thế nào để cắt giảm chi phí logistics chính là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp và các ban ngành cần phải tìm ra câu trả lời tối ưu nhất.

Vươn dài những chuyến tàu liên vận

TAP logitsics

Nếu không giảm được chi phí logistics, chúng ta sẽ rất khó tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. Là một mắt xích quan trọng trong chuỗi logistics, nhưng hệ thống đường sắt Việt Nam hiện đang rất lạc hậu, xuống cấp nghiêm trọng, cản trở vận tải đường sắt phát triển. Cùng với đó, năng lực vận tải thông qua thấp do hạn chế nhà ga, bãi hàng, tải trọng cầu đường, không kết nối được với các loại hình phương tiện vận tải khác, đặc biệt là kết nối với các cảng biển.

Bằng cách khai thác các thế mạnh trên hệ thống đường sắt liên vận quốc tế, đường sắt Việt Nam hoàn toàn có thể tiết giảm chi phí, thời gian vận chuyển hàng hóa cho khách hàng, dựa vào loạt yếu tố.

Vì vậy, để đường sắt phát huy thế mạnh trong hoạt động vận tải nói chung và vận tải hàng hóa liên vận quốc tế nói riêng, hệ thống đường sắt cần đầu tư của Nhà nước trong việc nâng cấp, hiện đại cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, Nhà nước cần ban hành thêm các chính sách đầu tư, đẩy mạnh việc kết nối đồng bộ hệ thống kỹ thuật đường sắt quốc tế. Bản thân ngành đường sắt Việt Nam cũng cần tiếp tục tìm kiếm và hợp tác với các đối tác. Có như vậy, năng lực vận tải hàng hóa bằng đường sắt mới thực sự cải thiện rõ rệt.

Xây dựng điểm kết nối trung chuyển

TAP logitsics

Trong bối cảnh xung đột Nga – Ukraine làm cho lạm phát thế giới leo thang, kinh tế toàn cầu suy giảm đã đẩy nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của người dân xuống thấp, các doanh nghiệp logistics đã chủ động tái cơ cấu doanh nghiệp, cải tiến quy trình vận tải, áp dụng chuyển đổi số, tăng cường đào tạo nội bộ… nhằm tối ưu quá trình vận chuyển, cắt giảm chi phí không hợp lý để từng bước vượt qua khó khăn.

Chẳng hạn như nhiều doanh nghiệp vận tải đã chủ động kết nối để có hàng vận chuyển hai chiều, hạn chế container rỗng; xây dựng tuyến vận tải hợp lý nhằm tiết giảm chi phí xăng dầu… Tuy nhiên, đây chỉ là những giải pháp của bản thân doanh nghiệp. Để kéo giảm chi phí logistics, Chính phủ cần có nhiều giải pháp tổng thể như: rà soát thủ tục hành chính, cắt giảm thủ tục kiểm tra chuyên ngành…

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đầu tư, xây dựng hệ thống hạ tầng logistics và hạ tầng giao thông hiện đại tại các trung tâm lớn bao gồm kho bãi, cảng biển, hệ thống đường kết nối… Đặc biệt, Chính phủ cần xây dựng các điểm kết nối trung chuyển để tạo thuận lợi cho vận tải đa phương thức gồm đường sắt, đường biển và đường bộ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành logistics.

Tư duy tinh gọn, tích hợp

TAP logitsics

Kinh tế nước ta vẫn đang chuyển đổi từ giá trị thấp lên mức trung bình dẫn đến chi phí logistics chiếm tỷ lệ lớn trong giá trị hàng hóa. Vì vậy trước khi thay đổi hành động, cần phải đối mới về tư duy. Để kéo giảm chi phí logistics xuống mức phù hợp, giải pháp cần được đưa ra một cách đồng bộ, đặc biệt về tư duy tinh gọn, tích hợp, liên kết của tất cả các bên liên quan từ công tác quy hoạch tổng thể vĩ mô cho đến chi tiết hoạt động vi mô của doanh nghiệp.

Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, chia sẻ dữ liệu lớn, đào tạo nguồn nhân lực. Rà soát, loại bỏ những điểm nghẽn trong cả chính sách và thực thi, thúc đẩy các chính sách khơi thông dòng chảy, ứng dụng công nghệ trong quản trị vận hành và triển khai các dự án, có các chính sách khuyến khích liên kết như tài trợ cho vay vốn ưu đãi có điều kiện… giảm các chi phí hạ tầng một cách phù hợp thông qua hoạt động đầu tư công hiệu quả.

Mặt khác, cần tăng cường tuyên truyền có mục tiêu nâng cao nhận thức về tăng năng suất lao động, liên kết liên ngành, hiệp hội, doanh nghiệp có quỹ hỗ trợ chuyển đổi số có điều kiện

Trở thành trung tâm logistics khu vực

TAP logitsics

Giá vận chuyển hàng hóa gần hai năm qua liên tục tăng khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất. Đáng chú ý, trong cơ cấu chi phí logistics, chi phí cho vận tải chiếm tỷ trọng rất lớn; trong đó chi phí xăng dầu chiếm 60 – 65% chi phí vận tải.

Trước biến động của thị trường logistics, nhiều doanh nghiệp logistics đã chủ động thay đổi cách thức quản trị, tổ chức hoạt động nhằm đạt hiệu quả tối ưu. Bên cạnh tổ chức hợp lý hóa trong chuỗi cung ứng trong tổ chức sản xuất; vấn đề kết nối hạ tầng; phát triển các phương thức vận tải mới cũng như đẩy mạnh vận tải đường sắt, đặc biệt tổ chức các tuyến vận tải thủy nội địa để kết nối tuyến quốc tế cũng cần được coi trọng. Bởi đây chính là giải pháp căn cốt trong tiết giảm chi phí cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.

Việt Nam, với vai trò trung tâm gia công cho các ngành công nghiệp của khu vực và thế giới như nông lâm sản, dệt may, giày dép, gỗ, linh kiện điện tử… cần được đầu tư trở thành trung tâm logistics hiện đại của khu vực. Trung tâm logistics này sẽ kết nối với các khu công nghệ, các trung tâm kinh tế nhờ hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không hiện đại và đồng bộ.

Trong đó, hệ thống vận tải đường sắt cần được đặc biệt quan tâm bởi đây là phương thức vận tải tối ưu. Giai đoạn đầu, vốn đầu tư dành cho đường sắt có thể tăng cao nhưng về dài hạn, đây là giải pháp kéo giảm chi phí logistics hiệu quả.

Quy hoạch ngành logistics với định hướng rõ ràng

TAP logitsics

Trong bối cảnh Chính phủ đẩy mạnh chuyển đổi số, các doanh nghiệp logistics cần tiên phong ứng dụng công nghệ và nền tảng số trong logistics nhất là liên quan tới thương mại điện tử để tối ưu hóa lợi ích cho người tiêu dùng và nhà bán hàng thông qua việc kiến tạo hệ sinh thái logistics bền vững.

Các Hiệp hội Logistics cần nâng cao hơn nữa vai trò trong việc phản biện chính sách với địa phương, bộ, ngành để tháo gỡ những điểm bất hợp lý trong quá trình thực thi chính sách, từng bước mở đường cho ngành logistics phát triển và hội nhập với khu vực và thế giới.

Các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội cần có quy hoạch tổng thể cho ngành logistics với những định hướng và lộ trình một cách rõ ràng và cụ thể, trong đó phải quy hoạch Hà Nội trở thành trung tâm logistics kết nối các phương thức vận tải nhằm tạo ra sự kết nối thuận tiện với các trung tâm kinh tế, các vùng kinh tế khác như Hải Phòng, Quảng Ninh, các cửa khẩu phía Bắc cũng như các tỉnh phía Nam.

Hệ sinh thái logistics không đầy đủ

TAP logitsics

Để đảm bảo hiệu quả của chuỗi cung ứng, cần xây dựng hệ sinh thái với mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và năng lực kết nối đa phương thức với hệ thống sân bay, cảng biển, đường sắt và đường bộ để cung cấp quá trình chuyển đổi liền mạch cho tất cả các cửa khẩu ở Việt Nam và xa hơn nữa là cho các nhà cung cấp, nhà sản xuất và khách hàng của họ.

Với các tiếp cận tích hợp nhằm nâng cao kỹ năng, công nghệ, hệ thống và tự động hóa cho hệ sinh thái, các giải pháp chuỗi cung ứng cho các bên trong hệ sinh thái sẽ trở nên phù hợp và hiệu quả, từ đó từng bước kéo giảm chi phí logistics. Nhưng nút thắt cổ chai của doanh nghiệp Việt Nam vẫn là tình trạng thiếu vốn đầu tư, sản xuất kinh doanh nhất là trong bối cảnh các kênh tài chính như tín dụng, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu đang gặp khó khăn.

Dẫu vậy, sự dịch chuyển của các nhà sản xuất lớn từ Trung Quốc sang Việt Nam hiện nay sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho hoạt động vận tải xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam; chẳng hạn như nguyên vật liệu thô và linh kiện lắp ráp. Khi Việt Nam đang chiếm lĩnh thế giới như một trung tâm sản xuất, nhu cầu xuất khẩu cả bằng đường hàng không và đường biển sẽ tăng lên đáng kể, cơ hội giao nhận hàng hóa sẽ rất nhiều.

[Tổng hợp]


TAP-WEB-Thumbnail-Jan-17.png

GDP Việt Nam dự kiến tăng trưởng 8%, cao nhất trong 11 năm qua. Đây chính là tín hiệu đáng mừng sau những thách thức lớn bởi tác động nhiều chiều từ hậu quả của đại dịch Covid-19.

Vào ngày 17/12, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ năm với chủ đề “Kinh tế Việt Nam 2023: “Ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn, vững vàng vượt qua thách thức”.

Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn, ông Trần Tuấn Anh, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, thế giới đang đứng trước những thách thức lớn bởi tác động nhiều chiều từ hậu quả của đại dịch Covid-19; căng thẳng địa chính trị, xung đột quân sự tiếp tục diễn biến phức tạp; tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao ở nhiều quốc gia; các vấn đề an ninh phi truyền thống và biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp và gay gắt…

Trong bối cảnh đó, năm 2022, kinh tế Việt Nam mặc dù không tránh khỏi những tác động bất lợi nhưng đã cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ, về cơ bản đã vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và đang lấy lại đà tăng trưởng vốn có.

Kinh tế Việt Nam 2022 dự kiến đạt mức tăng trưởng trên 8%, cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây, lạm phát được kiềm chế theo mục tiêu đề ra; xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm đã tăng hơn 13,4% , cán cân hàng hóa xuất siêu 10,6 tỷ USD, vốn đầu tư nước ngoài giải ngân tăng 15,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Không chỉ vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp trong 11 tháng tăng 8,6%, trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,9%; tiêu dùng trong nước tăng mạnh, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 11 tháng đầu năm 2022 tăng tới 17,5%. Bên cạnh đó, tổng thu ngân sách đến hết tháng 11/2022 đã vượt 16,1% dự toán và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, nước ta cũng đang tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức với nền kinh tế. Cụ thể, sự suy yếu nhanh chóng của tổng cầu thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp lên các đơn hàng sản xuất trong nước; chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) lần đầu tiên chỉ đạt 47,4 điểm , giảm dưới ngưỡng trung bình 50 điểm sau 13 tháng liên tiếp ở mức cao. Hệ lụy là ở một số lĩnh vực người lao động đã bị mất việc làm. So với cùng kỳ 2021, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp khai khoáng tháng 11/2022 giảm 10%, ngành sản xuất giường tủ bàn ghế giảm 6,2%. Cán cân thương mại dịch vụ vẫn đang bị mất cân đối ngày càng lớn.

Cùng với đó, bối cảnh tình hình thế giới và khu vực năm 2023 cũng được dự báo sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột ở Ukraine; nguy cơ suy thoái kinh tế tại các nước đối tác lớn của Việt Nam được dự báo là đáng kể; thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước thu hẹp; thị trường tài chính tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn…

Có thể thấy kinh tế thế giới đang trong giai đoạn đặc biệt khó khăn khi phải cùng lúc đối mặt với 2 vấn đề rất khó giải quyết đó là suy giảm kinh tế đi liền với lạm phát tăng cao.

Trong bối cảnh đó, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ năm tập trung thảo luận, làm rõ một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, tập trung vào phân tích, đánh giá làm rõ bối cảnh và các xu hướng lớn của thế giới và khu vực; làm rõ thêm xu hướng mất cân đối toàn cầu hiện nay đang đặt ra những cơ hội và thách thức gì cho kinh tế Việt Nam năm 2023 và những năm tới.

Hai là, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, cách thức vượt qua những thách thức lớn mà các nền kinh tế hiện nay đang cùng phải đối mặt, đặc biệt là từ xu hướng kép vừa suy thoái vừa lạm phát cao đang diễn ra ở nhiều nền kinh tế …

Ba là, tập trung phân tích, đánh giá, làm rõ thực chất những yếu tố căn bản nào đang đe dọa các nền tảng vĩ mô của kinh tế Việt Nam, những nguy cơ nào đối với các cân đối lớn của nền kinh tế; những nền tảng và sức mạnh nội tại cần phải phát huy, những dư địa chính sách và nguồn lực cần được khai thác, phát huy để phục vụ cho phát triển của 2023 và những năm tiếp theo; đồng thời, thẳng thắn nhìn nhận, phân tích những hạn chế, yếu kém, những điểm nghẽn chủ yếu trong phát triển.

Bốn là, dự báo các kịch bản phát triển, đưa ra những khuyến nghị, đề xuất về chủ trương, chính sách hoặc các biện pháp cụ thể để chủ động ứng phó, xử lý hiệu quả các vấn đề đang đặt ra đối với Việt Nam cả trong trước mắt 2023 và trong những năm tiếp theo.

Nhìn chung, 2022 là năm kinh tế Việt Nam dù không tránh khỏi những tác động bất lợi nhưng đã cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ, về cơ bản đã vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và đang lấy lại đà tăng trưởng vốn có. Những tín hiệu kinh tế tích cực này hưa hẹn sẽ mang đến một bức tranh logistics với màu sắc tươi mới hơn cho năm 2023.
Tổng hợp


avatar1657851935717-1657851935996402959215.png
Tỷ phú đôla hoàn toàn có thể có xuất phát điểm là một người thất học, làm công việc chân tay bình thường.

Lập nghiệp từ hai bàn tay trắng và trở nên thành công, giàu có không còn là chuyện quá xa lạ trên thế giới. Trường hợp của Masaru Wasami không phải ngoại lệ.

Wasami sinh ra và lớn lên tại Nhật Bản trong một gia đình không mấy khá giả. Ông bắt đầu làm việc bán thời gian tại một cửa hàng rau củ từ năm 12 tuổi để phụ giúp người mẹ bệnh tật của mình. 3 năm sau, ông nghỉ học giữa chừng để làm việc toàn thời gian, kiếm tiền trang trải cuộc sống.

Năm 1970, ông khởi nghiệp với một chiếc xe tải nhỏ. Chỉ vài năm sau, công ty Maruwa Unyu Kikan của ông đã sở hữu hơn 100 chiếc xe, tạo ra dịch vụ giao hàng hiện đang đảm nhiệm mảng logistics cho các chuỗi nhà thuốc và siêu thị trên khắp Nhật Bản.

Nhờ nỗ lực hết mình, Wasami đã trở thành tỷ phú USD, một phần là nhờ quan hệ hợp tác với Amazon từ năm 2017 để quản lý dịch vụ giao hàng trong ngày tại Nhật.

Ông Masaru Wasami (trái) và một đối tác (Ảnh: Internet).

Trong một cuộc phỏng vấn cách đây vài năm, ông nhớ lại khoảnh khắc nảy ra ý tưởng kinh doanh vận tải: “Tôi bị mất ngủ cả đêm. Đầu ngày hôm đó, tôi nhận được một số kiện hàng nhưng vô cùng bức xúc vì sự thiếu chuyên nghiệp của nhân viên xử lý bưu kiện. Sau một thời gian suy nghĩ, tôi quyết định giao hàng bằng xe tải của mình”.

Quan hệ đối tác của Wasami với nhà bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới đã giúp cổ phiếu Maruwa Unyu Kikan nhiều thời điểm tăng vọt. Việc sở hữu gần 60% cổ phần công ty đã giúp ông trở thành tỷ phú với tài sản khoảng 1 tỷ USD, theo Bloomberg.

Maruwa phát triển nhanh chóng sau khi Yamato Holdings Co., một trong những hãng vận chuyển bưu kiện lớn nhất Nhật Bản rút khỏi việc cung cấp giao hàng trong ngày cho Amazon để giảm bớt gánh nặng cho lực lượng lao động. Điều đó khiến Amazon chuyển sang các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân khác để đẩy mạnh mở rộng tại Nhật Bản – thị trường thương mại điện tử lớn thứ tư trên thế giới, nơi vẫn còn nhiều cơ hội phát triển.

Trả lời phỏng vấn, Wasami cho biết: “Chúng tôi đã đề nghị Amazon hợp tác với Maruwa để đảm nhận dịch vụ giao hàng trong ngày của họ trong nhiều năm. Tôi đã thuyết phục rằng họ có thể tin tưởng vào chúng tôi”.

Tuy nhu cầu giao hàng tăng là lợi ích cho những công ty như Maruwa nhưng nó cũng đi kèm với chi phí cao hơn đồng thời gây thiệt hại cho nhân sự. Năm 2017, Yamato đã tăng tỷ lệ giao hàng lần đầu tiên sau gần ba thập kỷ trong bối cảnh thiếu hụt lao động và tăng khối lượng vận chuyển từ các nhà bán lẻ thương mại điện tử. Công ty này từng đề xuất một đợt tăng giá khác ngay trước đợt thăng thuế tiêu thụ mới vào năm 2019 tại Nhật.

Trong khi đó, Maruwa vẫn không đàm phán tăng giá với Amazon cũng như hứa hẹn mức lương cạnh tranh cho tài xế của công ty. Họ có thể kiếm được khoảng 7,2 triệu yên (khoảng 67.000 USD) mỗi năm bằng cách giao hơn 150 kiện hàng mỗi ngày.

Dịch vụ logistics cho các nhà bán lẻ thực phẩm vẫn là hoạt động kinh doanh lớn nhất của công ty nhưng thương mại điện tử giờ đây đã chiếm hơn 1/3 doanh thu vào năm 2019, tăng từ 24% trong năm 2017.

Dù đạt thành công không phải ai cũng có được, Wasami vẫn rất khiêm tốn và luôn cho rằng ông chưa làm hết sức mình. Chính vì vậy, ông tìm cách để cải thiện bản thân cũng như hoạt động kinh doanh của công ty mỗi ngày. Trong danh sách 50 người giàu nhất Nhật Bản 2022 do Forbes công bố vào cuối tháng 3 vừa qua, Wasami đứng ở vị trí thứ 49. Tài sản của ông hiện ở mức 940 triệu USD.

Nguồn: Fortune, Bloomberg

Bài viết trích từ http://nhipsongkinhte.toquoc.vn/ – Mộc Tiên 


9a071584a0c762993bd6.jpg
Trong khu vực, Việt Nam cũng là quốc gia có người mua online thích giao hàng đến nơi làm việc nhất.

Gần đây, Ninja Van Group và DPD Group đã công bố Báo cáo nghiên cứu về hình thức kinh doanh thương mại điện tử xuyên biên giới. Báo cáo thực hiện tại 6 quốc gia Đông Nam Á, gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Việt Nam vàThái Lan; với gần 9.000 ứng viên tham gia. Đây đều là những ứng viên thành thạo và thường xuyên mua sắm trực tuyến.

Theo báo cáo, Việt Nam hiện đang chiếm 15% tổng thị trường mua sắm trực tuyến tại Đông Nam Á, chỉ đứng sau Thái Lan với tỷ lệ 16% và ngang bằng với Philippines. Báo cáo cho thấy người Việt Nam yêu thích việc mua sắm online và đang dẫn đầu khu vực ở nhiều chỉ số.

Cụ thể, Việt Nam là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về số lượng đơn mua hàng trực tuyến, với con số trung bình lên đến 104 đơn hàng/người/năm. Trong đó, 73% người được hỏi cho biết họ thường xuyên mua hàng trên các nền tảng mua sắm thương mại điện tử và 59% cho biết họ đã từng nhiều lần đặt hàng hoặc mua sắm trên các website quốc tế..

Trong khi đó, số đơn mua sắm trung bình của một người Singapore chỉ là là 58 và Thái Lan là 75.

Ngoài ra, trong một tháng, người Việt cũng nhận trung bình 7,1 bưu kiện, ngang bằng với tỷ lệ của Malaysia và cao hơn tỷ lệ của Thái Lan (6,8), Singapore (5,5) và Indonesia (6,5).

Đặc biệt, Việt Nam hiện là quốc gia có người mua online thích giao hàng đến nơi làm việc nhất. Dù nhiều người Việt cũng lựa chọn giao hàng tại nhà nhưng nếu so ra trong khu vực, tỷ lệ này vẫn ở mức thấp hơn các quốc gia trong nhóm ASEAN-6.

“Với nghiên cứu mang tính chiến lược thể hiện sự phát triển của ngành Thương mại điện tử và Bưu chính điện tử trong khu vực Đông Nam Á, chúng tôi tin rằng thị trường Việt Nam đang là một trong những quốc gia tiềm năng nhờ sự tăng trưởng bền vững và rõ nét trong những năm gần đây”, ông Phan Xuân Dũng, Giám đốc Kinh doanh của Ninja Van Việt Nam chia sẻ.

Dịch vụ vận chuyển – Yếu tố quan trọng khi mua hàng online

adcf02bf18fcdaa283ed-1200x799.jpg

Thế mạnh của miền Nam so với các trung tâm logistics khác là sự tăng trưởng của sản xuất nội địa, do đó có thể trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nhắc lại bảng xếp hạng hiệu suất cảng container của World Bank năm 2021, bà Trang Bùi, Tổng giám đốc Cushman & Wakefield Việt Nam, cho biết Cái Mép xếp thứ 11 trên thế giới. Trong khi đó, World Shipping Council cũng ghi nhận công suất cảng ở TP.HCM đạt 7,2 triệu TEU, đứng thứ 9 toàn cầu.

Năm 2020, cụm cảng biển Cái Mép – Thị Vải tiếp nhận thành công siêu tàu container Margrethe Maersk dài gần 400 m, trọng tải hơn 214.000 DWT và có thể chở đến 20.000 TEU. Đây là bước ngoặt trong ngành vận tải Việt Nam, khi lần đầu tiên các hãng có thể cung cấp dịch vụ trực tiếp tới Bắc Mỹ và châu Âu mà không cần đến các tàu gom để kết nối với những trung tâm trung chuyển của khu vực như Singapore hay Hong Kong.

“Nếu so sánh các cảng ở miền Nam Việt Nam với Singapore hay Hong Kong, sản lượng hiện tại của chúng ta chưa bằng, nhưng chúng ta không chỉ là cảng nước sâu có thể làm nơi trung chuyển các siêu tàu như họ, mà còn là công xưởng sản xuất của khu vực và thế giới.

Chúng ta hội đủ nhiều yếu tố ‘vàng’ để trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa toàn cầu, kết hợp với năng lực sản xuất nội địa để là một mắt xích không thể tháo rời trong chuỗi cung ứng thế giới”, bà Trang Bùi nhấn mạnh.

Miền Nam Việt Nam có gì?

Giai đoạn 2017-2021, trong khi các quốc gia khác ở ASEAN chỉ đạt mức tăng trưởng GDP trung bình khoảng 1-3%, Việt Nam ghi nhận mức tăng bình quân 5,4%/năm, trong đó vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đóng góp trên dưới 30%.

Xét về tổng giá trị xuất nhập khẩu, năm 2021 Việt Nam cũng chỉ đứng sau Singapore. Là trung tâm phát triển công nghiệp đầu tiên, miền Nam tập trung số lượng lớn các ngành nghề truyền thống như cao su, nhựa, dệt may… và đóng góp nổi trội cho thương mại cả nước những năm qua.

Theo báo cáo của Cushman & Wakefield, các tỉnh TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An và Bà Rịa – Vũng Tàu hiện cung ứng ra thị trường hơn 25.000 ha nguồn cung đất công nghiệp với tỷ lệ lấp đầy lên đến 89%. Giá thuê trung bình đạt 135 USD/m2/kỳ hạn thuê.

Dưới tác động của đại dịch và các bất ổn địa chính trị toàn cầu, Việt Nam nổi lên như một ngôi sao sáng, thu hút nhiều doanh nghiệp quốc tế. FDI tăng mạnh vào công nghiệp tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của thị trường nhà xưởng và nhà kho xây sẵn.

Không riêng gì chủ đầu tư và quỹ đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư trong nước cũng năng động với phân khúc này, với các tên tuổi lớn như Long Hậu hay Sonadezi đã tham gia thị trường từ sớm, và gần đây nhất là các dự án của chủ đầu tư KCN Việt Nam với 6 dự án khắp cả nước.

Tính đến hết quý I, tổng nguồn cung nhà xưởng xây sẵn miền Nam đạt 4,2 triệu m2 và nhà kho xây sẵn là 3,9 triệu m2, có giá thuê dao động từ 3,5-6 USD/m2/tháng.

Khu nhà kho xây sẵn tại một khu công nghiệp ở Bình Dương. Ảnh: Quỳnh Danh.

Với sự phát triển của các ngành sản xuất và thương mại, khu vực phía Nam hiện có khoảng 110 bến cảng, trong đó đã hình thành các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại TP.HCM và Bà Rịa – Vũng Tàu, các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn liền với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện thân nhận tàu.

Cushman & Wakefield dự báo công suất các cảng tại miền Nam trong 3 năm tới sẽ đạt gần 22 triệu TEU/năm, từ 2030 trở đi vượt 38,5 triệu TEU/năm. Mới đây, UBND TP.HCM cũng có văn bản gửi Thủ tướng đề xuất dự án đầu tư cảng trung chuyển container quốc tế tại huyện Cần Giờ có công suất thiết kế 10-15 triệu TEU, tổng chiều dài bến chính khoảng 7,2 km, với tổng nguồn vốn 6 tỷ USD.

Hạ tầng logistics có theo kịp?

Tuy nhiên, bà Trân Huỳnh – Giám đốc điều hành KCN Việt Nam – cho rằng hệ thống chuỗi cung ứng miền Nam vẫn còn nhiều lỗ hổng cần được giải quyết.

“Chúng tôi ghi nhận số lượng doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là giai đoạn hậu Covid-19. Tuy nhiên, không ít nhà đầu tư vẫn còn trì hoãn vì tình trạng thị trường bất ổn trên toàn cầu, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa kết nối tại miền Nam, chi phí vận chuyển tăng cao, thủ tục phê duyệt kéo dài và việc thiếu nguồn nhân lực tay nghề cao,” bà Trân Huỳnh chia sẻ.

Hệ thống cơ sở hạ tầng kết nối ở miền Nam được đánh giá còn nhiều điểm cần giải quyết. Ảnh: Quỳnh Danh.

Phân tích chi tiết hơn, bà Trang Bùi cho biết mạng lưới đường bộ đang đóng vai trò kết nối chính giữa các vùng công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển, cửa khẩu, đầu mối quan trọng, trong đó nhiều tuyến đường cao tốc và vành đai đã và đang được triển khai.

Tuy nhiên, một số tuyến đường cao tốc quan trọng có nhu cầu lớn, các tuyến quốc lộ song hành đã quá tải, thường xuyên tắc nghẽn, khiến thời gian vận tải container đến cảng biển chính phải mất hơn 2 giờ đồng hồ.

“Chiều dài đường cao tốc còn thấp so với các nước phát triển, mật độ phân bổ chưa đồng đều giữa các khu vực, một số trục đường có nhu cầu vận tải lớn vẫn còn bị trì hoãn như cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, TP.HCM – Mộc Bài, các đường cao tốc trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, các đường vành đai 3 và 4”, vị chuyên gia tại Cushman & Wakefield nói thêm.

Trong bối cảnh việc mở rộng, nâng cấp hệ thống đường bộ cần nhiều năm, bà Trang Bùi kiến nghị trước mắt có thể cải tạo mạng lưới đường sông, cảng sông kết nối với các cảng biển chính. Hiện khu vực miền Nam đã có hơn 6.500 km sông kênh với 6 tuyến vận tải đường thủy đang được khai thác, vận hành trên 2 hệ thống sông chính là sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

Còn về lâu dài, để tăng tính cạnh tranh với các vùng kinh tế khác trong nước và trong khu vực, bà Trân Huỳnh cho rằng miền Nam cần gấp rút phát triển song song cơ sở hạ tầng chất lượng cao và lực lượng doanh nghiệp cung ứng vừa và nhỏ, bên cạnh nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nội địa.

Trích nguồn từ baomoi.com – Lan Anh


nnn-4223-1602576972-e1612852304992.jpg

Vận chuyển chỉ là một khâu trong chuỗi logistics song lại là yếu tố quyết định giá thành của nông sản bởi chi phí quá lớn. Những bất cập của lĩnh vực vận tải trở thành đề tài thảo luận chính của đại diện bộ, ngành, doanh nghiệp và chuyên gia tại tọa đàm trực tuyến chủ đề: “Chi phí Logistics cho nông sản Việt, thách thức cạnh tranh trên thị trường quốc tế”.


VỀ CHÚNG TÔI

CÔNG TY VẬN TẢI TÂN AN PHÁT

  • Địa chỉ: 13 Bis, Đại Lộ Bình Dương, KP. Bình Hòa, P. Lái Thiêu, TP. Thuận An, Bình Dương
  • Điện thoại: (+84) 79 79 88 880
  • E-mail: sales@taplogistics.vn
  • GPĐKKD số: 3701017543, cấp ngày 23/06/2019 (bổ sung)